Hoạt động XKLĐ tại Hải Phòng

Đeo mặt nạ nhânTheo thông cáo của Sở LĐTB&XH đô thị cũng cho hay , số người đi XKLĐ trong vài năm gần đây bình quân chỉ đạt 1.800 lao động /năm , một con số khôn cùng khiêm tốn so với hơn 1 triệu người trong độ tuổi lao động của Vùng đất và so với tỷ lệ thất nghiệp trên địa bàn còn cao khoảng hơn 5% như hiện nay.Lý giải về thực trạng XKLĐ trên địa bàn thời gian qua , đại diện lãnh đạo Sở LĐTB&XH Hải Phòng tuy rằng , sở dĩ chương trình XKLĐ của Vùng đất đạt Cuối cùng thấp , là do thời điểm gần đây , một số nơi , cấp ủy , chính quyền Vùng đất chưa nhận thức đúng , chưa thấy được trách nhiệm của mình về Sự tình XKLĐ. Các doanh nghiệp có chức năng XKLĐ trên địa bàn hoạt động còn yếu và rời rạc , không đủ khả năng giải quyết các tranh chấp lao dong ở ngoại bang cũng như việc kiếm mở mang thị trường. Bởi thế khiến người dân thiếu tin tưởng và tích cực dự khán vào chương trình này. Trong lúc đó , thị trường XKLĐ luôn biến động , có những nước nhu cầu lao dong lớn nhưng mức lương bổng của người lao dong lại thấp , trái lại , những thị trường có mức lương bổng cao hơn , doanh nghiệp lại chưa chủ động tiếp cận để đưa lao dong đi.Trong một thông cáo giám sát về XKLĐ gần đây , Ủy ban các Sự tình tầng lớp của quốc dân đại hội đã chỉ rõ hàng loạt hạn chế , bất cập , như: số lượng các doanh nghiệp XKLĐ lớn ( 170 đơn vị , riêng Hải Phòng gần 20 đơn vị ) , song nhiều doanh nghiệp có quy mô quá nhỏ , lực lượng mỏng và Không trải việc. Trong lúc đó , việc tổ chức dạy nghề , ngoại ngữ , bổ dưỡng kiến thức nhu yếu cho người lao động trước khi đi được thực hiện qua quýt , làm phép. Đã vậy , nhiều doanh nghiệp còn thiếu trách nhiệm trong việc quản lý , canh giữ quyền lợi chính đáng của người lao dong ở nước ngoài; phí môi giới ám muội , ngoài tầm kiểm soát; chồng chéo thị trường , cạnh tranh thiếu lành mạnh… Chính vì lẽ đó khiến hầu hết những lao động Việt Nam , vốn không có thể đầu tư tự học nghề , ngoại ngữ , khi ra ngoại bang đã gặp phải dồi dào khó khăn và chỉ có thể làm những công việc với lương bổng thấp. Cũng theo bản thông cáo giám sát trên phân tách , đánh giá thì những hạn chế , yếu kém trong sự vụ quản lý nhà nước về lĩnh vực XKLĐ cũng là nguyên nhân cơ bản , không thể không kể đến. Trong đó , đặc biệt là các Sự tình , như: chưa có thủ pháp thẩm tra chặt chẽ năng lực của các đơn vị xin cấp phép cũng như thẩm tra chất lượng các hợp đồng cung ứng lao động do các doanh nghiệp đăng ký; tiêu cực trong sự vụ quản lý chưa được phát hiện kịp thời để chấn chỉnh; xử lý chưa nghiêm minh các vi phạm của doanh nghiệp XKLĐ.Người lao dong chờ mong cơ hộiTrong 2 năm ( 2008-2009 ) , Hải Phòng xuất khẩu 3.370 lao động sang thị trường các nước , chính yếu là Đài Loan và Malaysia. Tuy không đạt chỉ tiêu đề ra , song mệnh lao dong này hầu hết xuất thân từ những Nhà ở nhà nông khó khăn về kinh tế. Bởi thế , Bớt đi họ lương bổng được trong thời gian lao dong ở ngoại bang , đã góp phần không nhỏ vào việc xóa đói giảm nghèo cho Nhà ở , đảm bảo an sinh tầng lớp ở địa phương.Có một thực tế , tuy hoạt động XKLĐ ở Hải Phòng không ồn ào như trước , song phần đông người lao dong vẫn rất chờ mong một cơ hội đến với họ. Nhưng đó phải là cơ hội thật sự , mang lại công hiệu chứ không "đầu voi , đuôi chuột" như vừa qua. Muốn vậy , không còn cách nào khác là các cấp , ngành , đơn vị liên hệ phải khắc phục được tất thảy những hạn chế , yếu kém nói trên.Được biết năm 2010 này , nước ta sẽ đưa khoảng 85.000 người đi làm việc ở ngoại bang. Với chỉ tiêu trên , Hải Phòng cũng phải vài ngàn người dự khán vào chương trình XKLĐ này. Để hoàn tất được chỉ tiêu đã định , Bộ LĐTB&XH cũng đã đề ra một số giải pháp , như: tương trợ thanh niên , người nghèo vay vốn học nghề; thực hiện đề án tương trợ các huyện nghèo đẩy mạnh XKLĐ góp phần giảm nghèo nhanh , bền vững thời kì 2009-2020; cải cách cơ bản sự vụ đào tạo , huấn luyện người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài; thẩm tra , giám sát chặt chẽ , cương quyết tranh đấu với các cảnh tượng tiêu cực trong XKLĐ
.


You may also like

Không có nhận xét nào: